Trong chỉ đạo gần đây với ngành Giáo dục, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của giáo dục đại học đối với sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Sự nghiệp giáo dục nói chung, đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) nói riêng, thời gian qua, có một số kết quả đáng ghi nhận, bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số thách thức. Những kết quả đạt được Công tác tuyển sinh đang ổn định là điều kiện để Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) và các trường áp dụng những đổi mới kỹ thuật về phương thức đăng ký, phương thức xét tuyển, cách thức tổ chức đào tạo. Quy mô đào tạo các trình độ của GDĐH được mở rộng. Cơ cấu khối ngành, ngành nghề biến chuyển linh hoạt, thích ứng nhanh và phù hợp với chuyển động xã hội. Quy mô đào tạo đại học chính quy hiện nay: Trong đó, Khối ngành I: Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên; Khối ngành II: Nghệ thuật; Khối ngành III: Kinh doanh và quản lý, Pháp luật; Khối ngành IV: Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên; Khối ngành V: Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thủy sản, Thú y; Khối ngành VI: Sức khỏe; Khối ngành VII: Nhân văn, Khoa học xã hội và hành vi, Báo chí và thông tin, Dịch vụ xã hội, Khách sạn-du lịch-thể thao và dịch vụ cá nhân, Dịch vụ vận tải, Môi trường và bảo vệ môi trường, An ninh quốc phòng. Quy mô đào tạo đại học chính quy năm 2024 có xu hướng tăng so với năm 2023, trong đó phải nói đến sự tăng đáng kể của lĩnh vực Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thủy sản, Thú y (khối ngành này tăng 62.060 sinh viên với tỷ lệ 10,59% so với năm 2023). Điều này cho thấy các cơ sở đào tạo đã quan tâm đến xu hướng phát triển bền vững, phát triển các ngành kỹ thuật, công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Quy mô đào tạo thạc sĩ: Quy mô đào tạo thạc sĩ có xu hướng tăng đều trở lại ở tất cả các khối ngành so với năm 2023, trong đó phải nói đến sự tăng mạnh nhất của khối ngành đào tạo giáo viên (tăng 3.353 học viện tương ứng tăng 34,79% so với năm 2023), khối ngành Kinh doanh và quản lý, Pháp luật (tăng 3.205 học viên với tỷ lệ tăng 10,48% so với năm 2023),… Khối ngành Nghệ thuật cũng có sự chuyển biến do có sự quan tâm của Bộ chủ quản, quy mô đào tạo thạc sĩ đã tăng tỷ lệ 39,12% nhưng số lượng tăng chỉ 178 học viên cao học. Quy mô đào tạo tiến sĩ: Quy mô đào tạo tiến sĩ năm 2024 tăng mạnh ở tất cả các khối ngành so với năm 2023, trong đó phải nói đến sự tăng mạnh nhất của khối ngành Toán và Thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng,… tăng 637 nghiên cứu sinh (NCS) với tỷ lệ tăng 33,32% so với năm 2023; Khối ngành Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên tăng 390 NCS với tỷ lệ tăng 57,52%; Khối ngành Đào tạo giáo viên tăng 350 NCS với tỷ lệ tăng 51,32%,... Đánh giá tổng quan về GDĐH hiện nay, bà Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học – Bộ GD&ĐT cho rằng: “Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) nói chung và trong lĩnh vực GDĐH nói riêng của Bộ GD&ĐT ngày càng được nâng cao cả về chất lượng và số lượng, đã thúc đẩy GDĐH phát triển. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, trách nhiệm giải trình đối với cơ sở GDĐH là một chủ trương nhất quán và xuyên suốt trong đường lối của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt Luật Giáo dục đại học (năm 2018) đã quy định đầy đủ về cơ chế thực hiện tự chủ trong GDĐH. Công tác tuyển sinh về cơ bản ngày càng đảm bảo khách quan, công bằng, bình đẳng, thuận tiện hơn cho cả cơ sở đào tạo và thí sinh, giúp tiết kiệm nguồn lực xã hội, đồng thời góp phần đánh giá đúng năng lực của thí sinh vào các ngành đào tạo, ngày càng minh bạch hơn về nguồn tuyển và chất lượng nguồn tuyển. Công tác đào tạo và đảm bảo chất lượng ngày càng được chú trọng, cải thiện rõ rệt về chất. Đội ngũ giảng viên được gia tăng cả về số lượng và chất lượng, với sự cạnh tranh lành mạnh để thu hút nhân tài trong hệ thống. Hoạt động nghiên cứu khoa học được chú trọng, các công trình nghiên cứu ngày càng hướng theo chất lượng thực chất; đóng góp của các cơ sở GDĐH trong công bố khoa học cả trong nước và quốc tế vẫn luôn chiếm vị thế chủ đạo. Thứ hạng của các cơ sở GDĐH và ngành đào tạo của Việt Nam ngày càng được ghi nhận trên bản đồ GDĐH thế giới. Chuyển đổi số được đẩy mạnh trong hệ thống GDĐH”. Bà Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học – Bộ GD&ĐT Kết quả nghiên cứu và công bố quốc tế của hệ thống GDĐH Việt Nam trong những năm vừa qua có xu hướng tăng ổn định, trong đó các cơ sở GDĐH cũng luôn đóng vai trò chủ đạo trong công bố khoa học của cả nước. Theo Cục Thông tin KHCN quốc gia (2021), tổng kinh phí chi R&D (nghiên cứu và phát triển) quốc gia chiếm 0,42% GDP, trong đó ngân sách Nhà nước chiếm 30,9%. Khối GDĐH chiếm 1/3 tổng số cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (FTE) của cả nước và 3/4 số cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ của cả nước. Về số bài báo công bố trên các ấn phẩm Scopus trong 3 năm từ tháng 01/2022 đến hết tháng 07/2024, chỉ tính riêng 67 cơ sở GDĐH có số lượng công bố nhiều nhất đã chiếm 83,5% số bài của cả nước. Tuy nhiên, kinh phí R&D chi cho khối đại học chỉ chiếm 6,75% tổng kinh phí R&D quốc gia, đạt xấp xỉ 2.434 tỉ đồng hay 97,3 triệu đồng trên FTE (so với 476 triệu đồng trên FTE của toàn hệ thống). Công tác đảm bảo chất lượng được tăng cường, đội ngũ giảng viên ngày càng phát triển, công tác kiểm định chất lượng được chú trọng, song song với quá trình chuẩn hoá, hiện đại hoá cơ sở GDĐH và Chương trình đào tạo (CTĐT). Thống kê từ các cơ sở GDĐH và các trường cao đẳng sư phạm cho thấy số lượng đội ngũ giảng viên toàn thời gian trong 3 năm gần đây có xu hướng tăng lên: (Nguồn: Số liệu từ Hệ thống HEMIS do các cơ sở đào tạo kê khai) Có thể nói, cơ chế tự chủ đã cho phép các trường đẩy mạnh công tác tuyển dụng và nhân sự theo hướng nâng cao chất lượng. Một số trường chủ động xây dựng đề án vị trí việc làm, chủ động trong công tác tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc với những giảng viên có trình độ tiến sĩ và có năng lực nghiên cứu. Các trường đẩy mạnh phát triển đội ngũ có trình độ, chuyên môn cao, đặc biệt ưu tiên tuyển dụng giảng viên có trình độ tiến sĩ, đào tạo bồi dưỡng giảng viên theo học các chương trình tại các cơ sở GDĐH uy tín trên thế giới. Trong thời gian gần đây, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tại các cơ sở GDĐH ngày một tăng. Nhà nước hỗ trợ việc nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT thông qua các Đề án được Thủ tướng phê duyệt trong thời gian qua. Tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư và phó giáo sư cũng tăng dần đều hằng năm. Tỷ lệ trợ giảng có trình độ đại học giảm, điều này cho thấy các trường đã ý thức được việc nâng cao chất lượng giảng viên và thực hiện chuẩn hóa trình độ đội ngũ giảng viên theo quy định của Luật Giáo dục và Luật GDĐH. Văn hoá chất lượng ngày càng được hình thành và phát triển trong hệ thống GDĐH của Việt Nam. Riêng trong năm học 2023-2024 đã có thêm 592 CTĐT và 12 CSGD được kiểm định, trong đó số CTĐT kiểm định bằng bộ tiêu chuẩn trong nước là 447 chiếm 75,5%; số CTĐT được kiểm định bằng các bộ tiêu chuẩn nước ngoài là 145 chiếm 24,49 %; số cơ sở giáo dục (CSGD) được kiểm định bằng bộ tiêu chuẩn trong nước là 10 CSGD chiếm 83,3%, kiểm định bằng các bộ tiêu chuẩn nước ngoài là 02 CSGD chiếm 16,7%. Mạng lưới tổ chức kiểm định cũng được củng cố và phát triển. Trong năm 2023-2024, Bộ GDĐT cũng công nhận hoạt động đối với 04 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài tại Việt Nam gồm: ACBSP, ABET, THE-ICE, ACQUIN, đưa số lượng các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) nước ngoài hoạt động ở Việt Nam lên 10 tổ chức cùng với 7 tổ chức KĐCLGD trong nước đang hoạt động, đóng góp nhiều vào hoạt động bảo đảm và KĐCLGD GDĐH, đào tạo bồi dưỡng kiểm định viên. Kết quả kiểm định chất lượng đối với CSGD và CTĐT các trình độ của GDĐH trong thời gian qua đã phản ánh sự nỗ lực của cơ sở GDĐH trong việc thực hiện trách nhiệm xây dựng và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục bên trong cơ sở GDĐH phù hợp với sứ mạng, mục tiêu và điều kiện thực tế của CSGD. Số lượng các trường đại học được xếp hạng bởi các tổ chức uy tín trên thế giới ngày một tăng. Điều đó cho thấy, các cơ sở GDĐH đã ý thức rất rõ trách nhiệm kiểm định và coi đây là hoạt động thường xuyên của nhà trường để nâng cao chất lượng nhà trường và cũng là một tiêu chí để tăng cường hội nhập quốc tế. Chia sẻ về vấn đề này, ông Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng – Bộ GD&ĐT nhấn mạnh: “Để đáp ứng ngày càng tốt hơn với xu thế, nhu cầu bảo đảm và kiểm định chất lượng đại học hiện nay và hội nhập quốc tế, các trường cần triển khai phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong đầy đủ và triển khai công tác kiểm định thông qua tự đánh giá và đánh ngoài phải mang tính thực chất để phục vụ cho cải tiến chất lượng, lấy chất lượng cải tiến liên tục làm trọng tâm để đạt chuẩn chương trình đào tạo và chuẩn cơ sở giáo dục đại học; ưu tiên huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả, hợp lý, đúng quy định để cải tiến chất lượng, xếp hạng đại học phải bám sát Điều 9, Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 và đảm bảo cơ sở dữ liệu để xếp hạng phải đúng, kịp thời và thực chất, dựa trên quá trình cải tiến về bảo đảm và kiểm định chất lượng; bảo đảm nhân lực thực hiện nhiệm vụ bảo đảm chất lượng; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao trách nhiệm giải trình và công khai chất lượng giáo dục đại học”. Ông Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng – Bộ GD&ĐT Năm 2024, Bộ GDĐT ban hành Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học để làm cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở GDĐH; đánh giá và giám sát các điều kiện bảo đảm chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH theo quy định của pháp luật. Chuẩn cơ sở GDĐH gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí với những yêu cầu tối thiểu phản ánh các mục tiêu, giá trị và hoạt động chính yếu của các cơ sở GDĐH, nên thực hiện chuẩn đảm bảo tính thống nhất của quốc gia trong toàn hệ thống GDĐH. Thực hiện chuẩn cơ sở GDĐH cũng giúp các cơ sở GDĐH tự cải thiện và đảm bảo chất lượng bên trong của mình hằng năm, đáp ứng tốt hơn các mục tiêu phát triển của cơ sở GDĐH. Do đó, hằng năm, các cơ sở GDĐH đều thực hiện đánh giá theo chuẩn cơ sở GDĐH, dữ liệu đánh giá được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu GDĐH quốc gia và công bố công khai, minh bạch hằng năm cho toàn xã hội và các bên liên quan. Thực hiện Chuẩn cơ sở GDĐH giúp cơ sở GDĐH thiết lập các quy trình và tiêu chuẩn, chỉ số nội bộ vững chắc, thiết lập cơ chế đảm bảo chất lượng bên trong bền vững, thúc đẩy văn hóa cải tiến chất lượng liên tục, điều chỉnh các hoạt động nội bộ, góp phần đáp ứng các yêu cầu công nhận kiểm định chất lượng. Đồng thời, thực hiện chuẩn cơ sở GDĐH hiệu quả cung cấp dữ liệu và tài liệu toàn diện, chuẩn bị tốt hơn cho thực hiện kiểm định theo các bộ tiêu chuẩn kiểm định. Đến thời điểm này, Bộ GDĐT đã dự thảo Báo cáo Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và dự thảo Quyết định trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, đã hoàn thành các bước lấy ý kiến đối với dự thảo và đang thực hiện quy trình trình Chủ tịch Hội đồng thẩm định để tổ chức họp thẩm định Quy hoạch theo các quy định hiện hành. Như vậy, GDĐH sẽ củng cố, phát triển mạng lưới cơ sở GDĐH và sư phạm đủ năng lực đáp ứng nhu cầu học tập của người dân và yêu cầu nguồn nhân lực trình độ cao của các địa phương; quy mô đào tạo đạt 260 sinh viên và 23 học viên sau đại học trên một vạn dân, tỷ lệ học đại học trên số người trong độ tuổi 18 - 22 đạt 33%; dịch chuyển cơ cấu trình độ và ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hiện đại; tỷ trọng quy mô đào tạo thạc sĩ (và trình độ tương đương) đạt 7,2%, đào tạo tiến sĩ đạt 0,8%2; tỉ trọng quy mô đào tạo các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM) đạt 35%; hình thành 4 trung tâm GDĐH lớn tại các vùng đô thị Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, đào tạo chất lượng cao, trình độ cao gắn với nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo động lực phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và cả nước; tăng mạnh các chỉ số đóng góp của GDĐH trong mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDG 4.3)4 và chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII)5, phấn đấu vào tốp 10 quốc gia châu Á. Các cơ sở GDĐH được thực hiện tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định chỉ tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở GDĐH do Hội đồng trường ban hành và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Các cơ sở đào tạo đã từng bước đổi mới tư duy, nhận thức, nâng cao năng lực quản trị đại học, tháo gỡ các điểm nghẽn, khai thông các nguồn lực, đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học đi vào chiều sâu và thực chất, gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của các cơ sở đào tạo, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với GDĐH. Tự chủ trong chuyên môn, học thuật tiếp tục được đẩy mạnh, số lượng ngành đào tạo được mở mới tiếp tục tăng trong năm vừa qua, đặc biệt là các ngành do các cơ sở đào tạo thực hiện quyền tự chủ triển khai. Các cơ sở đào tạo đã quan tâm sâu hơn việc mở ngành để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của đất nước và của từng địa phương, số lượng ngành đào tạo quan tâm mở nhiều trong năm 2024 gồm có: Du lịch, Logistics và quản lý chuỗi cung ứng, Trí tuệ nhân tạo,... Triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, nhiều trường đại học đã chủ động tận dụng được lợi thế trong việc huy động nguồn lực từ xã hội, đa dạng hoá nguồn thu phục vụ cho phát triển nhà trường thông qua các dịch vụ đào tạo, chương trình đào tạo chất lượng cao và có tính hội nhập; tăng tỷ trọng nguồn thu từ các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và phục vụ cộng đồng. Các trường cũng chủ động trong xây dựng kế hoạch tài chính trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; khai thác, quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính cho đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục. Nhờ đó, diện mạo của các trường đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, cơ sở vật chất được tăng cường; đời sống vật chất của đội ngũ cán bộ, giảng viên của các nhà trường có nhiều cải thiện, các cơ sở GDĐH có điều kiện tốt hơn để thu hút giảng viên có trình độ cao, năng lực tốt. Vẫn còn những tồn tại, thách thức Không thể phủ nhận kết quả phát triển của hệ thống GDĐH nói chung, của nhiều cơ sở GDĐH trên cả nước nói riêng, trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, với góc nhìn từ thực tiễn chuyển động nhanh chóng của xã hội và nhu cầu ngày càng khắt khe đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH ở Việt Nam còn tồn tại một số khó khăn, thách thức. Mô hình tổ chức, hoạt động, cơ chế phân cấp, phân quyền, phối hợp công tác giữa hội đồng đại học và hội đồng trường của trường đại học thành viên ở các đại học quốc gia, đại học vùng cũng như việc phân định mức độ tự chủ của các trường đại học thành viên trong bức tranh tự chủ chung của đại học quốc gia, đại học vùng còn bất cập. Chất lượng đào tạo mặc dù đã được nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao và yêu cầu phát triển kinh tế tri thức; trình độ ngoại ngữ, trong đó có trình độ tiếng Anh của lao động qua đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Quy mô đào tạo trình độ đại học tăng nhưng tập trung ở các ngành, lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao như khối ngành kinh tế, tài chính hoặc khối ngành có nhu cầu nguồn nhân lực lớn, trong khi các nhóm ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội, văn hóa nghệ thuật, nông nghiệp... chưa có sức hút đối với người học. Đa số cơ sở GDĐH chỉ tập trung chủ yếu vào hoạt động đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học, chưa quan tâm đầu tư thỏa đáng cho đào tạo sau đại học gắn với nghiên cứu khoa học. Công tác đào tạo chưa gắn kết chặt chẽ, thường xuyên với yêu cầu sử dụng lao động và nhu cầu xã hội. Năng lực kết nối giữa viện nghiên cứu, trường đại học, nhà khoa học với doanh nghiệp tuy đã có sự cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, chưa khai thác, phát huy được hết tiềm năng nghiên cứu khoa học và khả năng chuyển giao công nghệ. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy có tăng về số lượng nhưng thiếu các nhà khoa học đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới và thực hiện triển khai các nhiệm vụ quốc gia ngang tầm khu vực và quốc tế; động lực cống hiến và nhiệt huyết của một bộ phận đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ chưa cao. Việc đầu tư ngân sách nhà nước cho GDĐH đang theo xu hướng giảm trong những năm gần đây, nhiều cơ sở GDĐH công lập không có đủ nguồn tài chính cần thiết để bù đắp chi phí đào tạo (tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý, chi phí khấu hao tài sản cố định) và tái đầu tư để nâng cao chất lượng đào tạo; học phí của các cơ sở GDĐH công lập còn chậm được điều chỉnh để bảo đảm bù đắp đủ chi phí theo lộ trình quy định nên ảnh hưởng đến khả năng tự chủ tài chính của các cơ sở GDĐH. Công tác xã hội hóa giáo dục chưa đạt được nhiều kết quả; cơ chế, chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng chưa đủ hấp dẫn, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho giáo dục, nhất là ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Có nhiều lý giải cho những tồn tại, thách thức nêu trên, từ góc độ chính sách, pháp luật; từ góc độ ngân sách, tự chủ nguồn thu, phương thức chi của các trường; từ góc độ minh bạch và trách nhiệm về chất lượng đào tạo; từ năng lực quản lý, quản trị cơ sở vật chất; từ khâu đột phá về chính sách tuyển dụng, đãi ngộ nhân tài trong nước và ngoài nước; từ sự hạn chế trong tăng cường, mở rộng không gian phát triển; từ công tác kiểm tra, giám sát; từ nhu cầu nhân lực chất lượng cao của thị trường lao động và nhu cầu học tập đa dạng của người học trong bối cảnh mới; từ sự cấp thiết thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo; v.v… đặc biệt là vấn đề cốt lõi tự chủ đại học. Vì vậy, GDDH ở Việt Nam cần phát triển phương án tự chủ có chiều sâu và có tầm nhìn. #Nguồn: https://tapchigiaoduc.edu.vn/article/88776/212/giao-duc-dai-hoc-o-viet-nam-ket-qua-va-mot-so-ton-tai-bai-1
|